Xử lý phân chia thừa kế đối với bất động sản

0
160
Đánh giá

Vẫn đề thừa kế bất động sản đang có nhiều câu hỏi. Vậy chia thừa kế bất động sản được xử lý như thế nào? và căn cứ điều luật nào?

Để có đáp án nhanh nhất trong lĩnh vực pháp luật, gọi Tổng đài tư vấn pháp luật (24/7): 1900 6198

1. Căn cứ pháp lý:

  • Bộ luật dân sự (BLDS) 2005;
  • Bộ luật dân sự 2015;
  • Bộ luật tố tụng dân sự 2004;
  • Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
  • Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP.

2. Về bản án năm 2015:

Trước hết: Đối với vụ việc được xét xử vào năm 2015 khi BLDS mới 2015 chưa có hiệu lực nên việc xét xử vụ việc sẽ căn cứ vào BLDS 2005.

Theo như thông tin mà bị đơn cung cấp, chỉ có phần đất là di sản của bố bị đơn là đang có tranh chấp. Phần đất là di sản của mẹ bị đơn mất năm 2009 không có tranh chấp.

Theo quy định của BLDS 2005 tại điều 645 quy định: Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. Đến năm 2015 đã là quá thời hạn khởi kiện do đó các bên không thể yêu cầu tòa án chia thừa kế, xác lập quyền thừa kế nữa.

Thực tế bị đơn chỉ bắt đầu xây nhà ở, tôn tạo trên phần đất di sản từ năm 2014 (chiễm hữu đất làm nhà ở không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, công khai) tuy nhiên chưa đủ thời gian để xác lập quyền sở hữu đối với tài sản.

Trong trường hợp này, do đã quá thời hạn khởi kiện căn cứ nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP, thì có thể không áp dụng thời hiệu chia thừa kế khi:

“ … sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

a3, Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung”.

Do đó, sau khi kết thúc thời hạn yêu cầu chia thừa kế thì các bên vẫn có thể được chia tài sản chung của các thừa kế. Về cơ bản khi chia tài sản chung sẽ áp dụng nguyên tắc chia đều.

Tuy nhiên, việc chia của tòa án còn nhiều vướng mắc: về chia 48 m2 làm ngõ, chia đất cho từng người.

Thực tế đến nay, bản án năm 2015 vẫn không thể thực hiện, các bên tiếp tục kiện đòi chia tài sản, về cơ bản việc chia di sản vẫn chưa được giải quyết và nhiều khả năng bản án cũ (2015) không thể thi hành được.

3. Kiện đòi di sản năm 2018, chia thừa kế bất động sản.

Đến nay do bản án cũ của tòa án vẫn chưa thực hiện được, vẫn còn đang có những tranh chấp. Khi anh chị bị đơn nộp đơn kiện đòi chia di sản thì sẽ áp dụng luật BLDS mới 2015 (căn cứ áp dụng hiệu lực trở về trở về trước của văn bản quy pháp pháp luật). Hiện nay luật dân sự 2015 đã có hiệu lực, với các quy định rõ ràng đối với vụ việc của nguyên đơn. Cụ thể:

Theo điều 623 Bộ luật dân sự 2015 thì: Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản. Do đó, phần đất của bố bị đơn được chia theo pháp luật: chia đều cho 6 người con của người để lại di sản, đối với người con mất 1994 vẫn được chia thừa kế theo diện người thừa kế thế vị ( tham khảo điều 652 BLDS 2015).

Do đó, như bị đơn trình bày, anh trai bị đơn có hành vi khai tử sai năm, do người được nhận thừa kế phải là người còn sống tại thời điểm mở thừa kế, nôm na là phải còn sống tại thời điểm người để lại di sản chết. Do đó, khi khai tử sai năm nhằm mục đích để người con mất năm 1994 mất trước bố ( người để lại di sản) thì người con đó sẽ không được chia thừa kế (dù có người kế thế vị). Khi đó, di sản của người mất sẽ chia 5 phần mà không phải là 6 phần.

4. Đối với thủ tục xét xử của tòa khi chia thừa kế bất động sản.

Thứ nhất, đối với khiếu nại của bị đơn về bản án năm 2015 đến nay vẫn chưa có phản hồi từ tòa án: chấp nhận, bác bỏ, yêu cầu bổ sung hồ sơ. Thực tế, đối với bản án phúc thẩm thì bị đơn chỉ có quyền thông báo bằng văn bản cho tòa án hoặc viện kiểm sát mà không có quyền kháng nghị bản án phúc thẩm (theo bộ luật tố dụng dân sự 2004 có hiệu lực vào năm 2015). Do đó, có thể thông báo của bị đơn đã không được chấp thuận.

5. Thứ hai: Về việc tòa xét xử chia thừ kế bất động sản khi vắng mặt bị đơn

Theo quy định của điều 227, Bộ luật tố tụng dân sự 2015 (có hiệu lực từ ngày 1/7/2016) thì:

  • Tòa triệu tập lần 1 nhưng bị đơn vắng mặt mà không có yêu cầu xét xử vắng mặt, hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa
  • Tòa triệu tập lần 2, bị đơn vắng mặt, bị đơn không có yêu cầu phản tố thì tòa án tiến hành xét xử vắng mặt
  • Do đó, trong trường hợp này tòa án đã căn cứ vào việc triệu tập lần 2 mà bị đơn không có mặt để xét xử. Tuy nhiên, thực tế bị đơn không hề nhận được giấy triệu tập của tòa án. Việc này có dấu hiệu hoạt động mập mờ của tòa án, có lẽ tòa án đã bỏ qua triệu tập bị đơn hai lần để có lý do xét xử vắng mặt bị đơn hoặc do có triệu tập mà bị đơn không nhận được.

6. Hướng giải quyết:

Theo quy định pháp luật: Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, do đó trước hết bị đơn cần yêu cầu được nhận bản án sơ thẩm.

Trường hợp, bản án sơ thẩm có sai xót, bị đơn có thể làm đơn kháng cáo lên cấp sơ thẩm theo thủ tục kháng cáo quá hạn (thời gian kháng cáo là quá 15 ngày kể từ ngày bản án sơ thẩm có hiệu lực).

7. Quy trình kháng cáo:

Sau khi nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm.

Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ kèm theo, Tòa án cấp phúc thẩm xem xét đơn kháng cáo.

Thông báo chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn và phải ghi rõ lý do của việc chấp nhận hoặc không chấp nhận trong quyết định.

8. Lời khuyên đối với bị đơn:

Với những quy trình phức tạp của tố tụng, cũng như những dấu hiệu sai lệch của tòa án địa phương, văn phòng khuyên bị đơn nên ủy quyền cho luật sư, người có chuyên môn giúp mình thực hiện các thủ tục và tham gia tố tụng, đảm bảo quyền lợi của bị đơn.

9. Đối với hành vi làm giả giấy tờ của anh bị đơn:

Hành vi của anh bị đơn có dấu hiệu cấu thành tội giả mạo trong công tác, được quy định tại điều 359, bộ luật hình sự 2015, cụ thể: Người nào vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện một trong các hành vi: sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu; làm, cấp giấy tờ giả.

Thì có thể bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm, trường hợp làm giả từ 02 giấy tờ có thể bị phạt tù theo khung tăng nặng từ 03 năm đến 10 năm. Do đó, khi thực hiện quy trình tố tụng dân sự, tòa xét xử dân sự có thể chuyển nội dung vi phạm hình sự sang tòa án xét xử hình sự mà không cần bị đơn yêu cầu. Tuy nhiên, bị đơn cũng có thể gửi đơn khởi kiện tới tòa án hình sự yêu cầu tòa giải quyết vụ án.

Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất và Văn phòng đăng ký đất đai

Tiềm năng kinh doanh Resort giữa đại dịch Covid

Khuyến nghị của Công ty Luật TNHH Everest

  1. Bài viết trong lĩnh vực nêu trên được luật sư, chuyên gia của Công ty Luật TNHH Everest thực hiện nhằm mục đích nghiên cứu khoa học hoặc phổ biến kiến thức pháp luật, hoàn toàn không nhằm mục đích thương mại.
  2. Bài viết có sử dụng những kiến thức hoặc ý kiến của các chuyên gia được trích dẫn từ nguồn đáng tin cậy. Tại thời điểm trích dẫn những nội dung này, chúng tôi đồng ý với quan điểm của tác giả. Tuy nhiên, quý Vị chỉ nên coi đây là những thông tin tham khảo, bởi nó có thể chỉ là quan điểm cá nhân người viết.
  3. Trường hợp cần giải đáp thắc mắc về vấn đề có liên quan, hoặc cần ý kiến pháp lý cho vụ việc cụ thể, Quý vị vui lòng liên hệ với chuyên gia, luật sư của Công ty Luật TNHH Everest qua Tổng đài tư vấn pháp luật: 1900 6198, E-mail: info@everest.org.vn.

TRẢ LỜI

Vui lòng nhập bình luận của bạn!
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây